Hệ thống gầm xe ô tô là gì?
Hệ thống gầm xe là toàn bộ các bộ phận tính từ phía dưới ba đờ sốc, ba bô lê trở xuống. Chính vì vậy hệ thống gầm xe bao gồm các hệ thống lái, hệ thống phanh, hệ thống treo, hệ thống truyền động như hộp số, trục các đăng, vi sai, hệ thống dẫn động cầu trước, hệ thống dẫn động cầu sau. Các hư hỏng của hệ thống gầm xe ô tô rất nhiều từ đơn giản đến phức tap, từ hư hỏng nhẹ đến hư hỏng nặng. Gầm xe ô tô bao gồm: bánh xe, hệ thống treo, hệ thống lái, hệ thống phanh.
Gầm xe ô tô đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì hiệu suất và an toàn cho phương tiện di chuyển. Không chỉ là một bộ phận giúp hỗ trợ và nâng đỡ toàn bộ trọng lượng của xe, gầm còn chịu trách nhiệm đảm bảo sự ổn định, cân bằng và kiểm soát động cơ khi di chuyển trên mọi loại địa hình. Tuy nhiên, việc sử dụng xe trong điều kiện đường xá phức tạp và khắc nghiệt sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực, gây ra các vấn đề hư hỏng nên vì vậy bạn cần kiểm tra và bảo dưỡng định kỳ cho gầm xe ô tô của bạn.
Hệ thống gầm xe ô tô gồm những gì ?
Hệ thống gầm xe ô tô gồm rất nhiều hệ thống như hệ thống lái, hệ thống phanh, hệ thống truyền động, hộp số, cầu, hệ thống treo, các hệ thống an toàn như hệ thống cân bằng điện tử, hệ thống chống lật, hệ thống ABS. Trong các hệ thống thuộc gầm xe ô tô lại có rất nhiều chi tiết phụ tùng khác nhau.
Ví dụ trong hệ thống treo gồm có rô tuyn cân bằng, rô tuyn trụ đứng, càng A, chân máy, chân số, giảm xóc, bát bèo, tăm bông … còn trong hệ thống lái gồm có vô lăng, trục lái, cột lái, các đăng lái, rô tuyn lái trong, rô tuyn lái ngoài, thước lái, mô tơ lái điện (đối với hệ thống lái điện), bơm trợ lực lái (đối với hệ thống lái dầu), cảm biến góc lái, cảm biến mô men lái …
Hệ thống treo của gầm xe ô tô
Sử dụng các loại hệ thống treo có độ bền cao, độ tin cậy và khả năng hoạt động lâu dài mà sô’ lượng chi tiết không tăng nhiều hoặc thậm chí có thể giảm bớt (treo Mc.Pherson, treo đòn dọc có thanh liên kết) mà vẫn đảm bảo các điều kiện cho tính dẫn hướng, điều khiển, nâng cao độ ổn định. Đặc biệt là việc đưa vào các hệ treo có khả năng tự động điều chỉnh độ cứng, tự động điều chỉnh độ cao thùng xe. Kết hợp với cấu trúc của bánh xe, hệ treo của ôtô con đã đảm bảo điều kiện tiếp xúc của bánh xe trên nền đường với chất lượng tốt hơn hẳn. Sự thay thế và sửa chữa ít xảy ra, chu kỳ bảo dưỡng tăng từ 2 đến 3 lần so với trước đây. Mặc dù một số kết cấu có sô’ lượng cụm tăng, nhưng bố trí rất gọn và kích thước nhỏ lại cho phép dành nhiều không gian cho động cơ, hệ thống truyền lực, khoang chứa hành lý, điều này giúp nhiều cho việc nâng cao khả nâng cơ động của xe, giảm lực cản khí động khi xe chạy với tốc độ lớn. Các kết cấu đều có độ bền cao, ít phải tiến hành điều chỉnh trong sử dụng, thậm chí có nhiều xe hiện đại không cần thiết phải điếu chỉnh trong suốt quá trình sử dụng.
Hệ thống phanh của gầm xe ô tô
Hệ thống phanh đang không ngừng được hoàn thiện, xu hướng chung là sử dụng kết cấu phanh đĩa, dẫn động phanh có hệ thống chống bó cứng bánh xe khi phanh (ABS). Các bánh xe ít bị trượt lết, hoặc không có trượt lết. Khả năng ổn định của xe được nâng cao kể cá khi đi trên đường vòng, quãng đường phanh được thu ngắn. Hiệu quả phanh được đảm bảo ở mức độ cao. Đặc biệt nhờ các hê thống điện tử cho phép báo sự cố hoặc khi hư hỏng, tạo điều kiện cho cán bộ kỹ thuật và người lái giảm nhẹ lao động khi tìm “pan” và nhanh chóng khắc phục sự cố.
Nhiều tiêu chuẩn của các quốc gia và quốc tế đã buộc các hãng sản xuất phải hoàn thiện kết cấu để xe có thể hoạt động an toàn trong các điều kiện khác nhau. Ví dụ: Cộng hoà liên bang Đức buộc phải bố trí hệ thống ABS cho ôtô con của các hãng trong nước. Tiêu chuẩn quốc tế đã quy định xe con phải bố trí dẫn động phanh hai dòng, quãng đường phanh phải nhỏ…
Các hệ thống phanh của xe con phần lớn sử dụng loại có cường hoá bàn đạp, mặc dù lực bàn đạp của xe con nhỏ hơn so với xe tải nhiều lần, song điều này cũng giúp cho người sử dụng có sức khoẻ bình thường có thể dễ dàng điều khiển, xe lâu dài, liên tục.
Hệ thống lái của gầm xe ô tô
Hệ thống lái thay đổi theo xu hướng làm nhẹ lực đạt lên vành lái, sử dụng thuận lợi dễ dàng mà vẫn đảm bảo khả năng điều khiển xe chính xác, nhanh chóng. Các cơ cấu cường hoá đã thoả mãn điều kiện trên, kể cả khi cường hoá hư hỏng lực đánh tay lái không vượt quá 200N.
Độ dơ vành lái rất nhỏ, nhưng lại có khả năng giảm hầu hết chấn động từ mặt đường lên vành lái. Kết cấu của các hệ thống lái rất nhỏ gọn, dễ bố trí, không hỏng vặt đã giúp cho người lái điều khiển xe chính xác, nhẹ nhàng, độ tin cậy cao.
Một số ô tô con đã được bố trí hệ thống tự động lái theo chương trình bằng một hệ thống máy tính tinh vi, song giá thành oủa các cấu trúc như vậy còn khá đắt nên chưa có khả năng áp dụng rộng rãi. Một xu hướng cần quan tâm là nâng cao khả năng cơ động và khả năng ổn định của xe khi quay vòng bằng các hệ thống lái tất cả các bánh xe.
Sự phát triển hệ thống gầm xe ô tô
Để đáp ứng đòi hỏi trên, từ những năm của thập kỷ 90 công nghiệp sản xuất ô tô con đã có nhiều tiến bộ vượt bậc. Các tiến bộ đó đã dựa trên đà phát triển của các ngành công nghiệp liên quan như: chế tạo máy, luyện kim, dầu mỏ và lĩnh vực tự động hoá (điện tử, tin học), và đã cho phép nâng cao tốc độ lớn nhất của xe tới xấp xỉ 300km/h. Chúng ta thấy rõ các xu hướng phát triển kết cấu của ô tô con khá rõ nét. Riêng đối với phần gầm ô tô con có thể kể đến một số tiến bộ tiêu biểu.
Việc sử dụng phổ biến các loại lốp không săm, có áp suất thấp từ 2.4-3 kg/cm2, lốp có chiều ngang rộng đã nâng cao đáng kể khả năng lăn êm trên nền, giảm hệ số cản lăn, tăng tính kinh tế nhiên liệu, giảm giá thành chế tạo… Việc bố trí các bánh xe có nhiều thay đổi, các bánh xe khi làm việc có thời gian lản phảng trên đường nhiều hơn, tính chất động học, động lực học đảm bảo với chất lượng cao, nhất là tính dẫn hướng và ổn định hơn hẳn kể cả khi xe có vận tốc lớn, khi gặp chướng ngại hoặc đường xấu.